Lòng Thương Xót: Kinh Thánh Và Thần Học
B. Thực hành thương xót
Sau khi đã hiểu biết lòng thương xót của Thiên Chúa, đến lượt chúng ta được mời gọi thực hành lòng thương xót đối với tha nhân. Tôi chỉ giới hạn vào hai điểm: 1/. Công bình và thương xót trong Giáo Hội; 2/. Thực hành những công việc thương xót.
1. Công bình và thương xót
Những cuộc tranh luận trong Thượng Hội Đồng Giám Mục về hôn nhân cho thấy rằng thời nào Giáo Hội cũng gặp khó khăn trong việc dung hòa giữa công bình và thương xót. Thiết tưởng một chìa khóa để giải quyết vấn đề là nhìn lại tương quan ấy dưới lăng kính của chân lý và thương yêu (veritas / caritas), đã đượcĐức Thánh Cha Benedict XVI nêu lên trongThông điệp Caritas in Veritate (29/6/2009): chúng ta hãy nhìn vấn đề từ hai góc độ: “Veritas in Caritate” và “Caritas in Veritate”.
a/. Veritas in Caritate
Cụm từ này, trích từ thư gửi Ephêsô (4,15): “Veritatem facientes in caritate”, đã được trưng dẫn hơn một lần để Giáo Hội tự vấn về vài biện pháp cứng rắn khi bảo vệ chân lý: có thể cưỡng bách người khác phải chấp nhận chân lý không? Công Đồng Vatican II trả lời rằng: không được! Chân lý chỉ có thể ràng buộc bằng chính sức mạnh của mình, chứ không bằng vũ lực bên ngoài.
– Phải thú nhận rằng, đôi khi thực tế đặt ra những trường hợp nan giải. Yêu nhau là nói sự thật cho nhau, cho dù “nói thật mất lòng”? Hay là vì yêu thương mà ta không được dùng biện pháp cứng rắn? Giả như một người cha có đứa con bỏ nhà đi hoang, thì thử hỏi: thế nào là yêu thương nó? Yêu thương là đi tìm kiếm nó (kể cả nhờ đến lực lượng công an), dẫn nó về nhà, và nếu nó còn muốn trốn đi thì hãy xích nó lại? Hay là thương yêu đứa con có nghĩa tôn trọng tự do của nó, chỉ biết ra cửa sổ ngồi khóc chờ ngày nó hối hận trở về?
– Tuy nhiên chúng ta cũng có thể áp dụng cụm từ “Veritas in Caritate” vào một bối cảnh khác, đó là: hãy trình bày chân lý trong sự kính trọng tha nhân, trong thái độ hòa nhã (1Pr 3,15-16). Chúng ta chia sẻ niềm tin của mình cho tha nhân vì yêu thương họ, chứ không phải với tư cách trịch thượng của kẻ đã nắm chắc chân lý trong tay, muốn lên mặt dạy đời!
b/. Caritas in Veritate
Tân ước chỉ có cụm từ “Veritas in Caritate” (Ep 4,15) vừa trưng dẫn trên đây, chứ không nói đến “Caritas in Veritate”. Đức Thánh Cha đảo ngược lại thứ tự để rồi đưa về tư tưởng nguyên thủy.
Ngay ở phần nhập đề,[47] Thông điệp Caritas in Veritate đã đối chiếu giữa “caritas” với“veritas” như sau: Nơi Thiên Chúa, “caritas” và “veritas” đồng nhất với nhau.[48] Dĩ nhiên ở đây, “caritas” phải hiểu là “Tình yêu”. Thiên Chúa là Tình yêu vĩnh cửu và Chân lý tuyệt đối. Nơi Thiên Chúa, tất cả mọi sự đều là tương quan và ban phát Tình yêu trong Chân lý, trước hết là nơi Đức Giêsu Kitô, kế đến là nơi mỗi nhân sinh, và sau cùng là nơi toàn thể vũ trụ.[49]Vì thế không thể nào tách rời tình yêu với chân lý. Con người mang trong mình sự khao khát tình yêu và chân lý. Chân lý cần được tìm kiếm và diễn tả trong bầu khí của tình yêu; đối lại, tình yêu cần được hiểu biết và thực hành dưới ánh sáng của chân lý. Khi trình bày chân lý là chúng ta phục vụ tình yêu, và việc thực hành yêu thương tăng cường sức khả tín của chân lý. Nếu không có chân lý, thì tình yêu chỉ là tình cảm rỗng tuếch và dễ bị lệch lạc do đủ thứ ý kiến xu thời. Nhờ chân lý, chúng ta có khả năng vượt lên những ý kiến, ấn tượng, giới hạn văn hóa, để thiết lập những giá trị nền tảng chung.
Trong chương trình mục vụ, Giáo Hội cần phải rao giảng chân lý, “chân lý của lòng thương xót”. Khi tiếp xúc với con người cụ thể, cần phải để ý đến mỗi tình trạng: Giáo Hội lên án tội lỗi, nhưng yêu thương con người lỗi lầm (x. Ga 8,11). Chúng ta được khuyên nhủ đừng nghiêm khắc khi xét đoán tha nhân, bởi vì chỉ có Thiên Chúa biết được cõi lòng của mỗi người. Dù sao, vào ngày cánh chung, tất cả chúng ta sẽ bị xét đoán dựa theo lòng thương xót (hoặc được phán xét bởi lòng thương xót).
2. Những công việc thương xót
Sau những suy tư lý thuyết, Thông điệp Dives in misericordia và Sắc chiếu Misericordiae vultus mời gọi chúng ta diễn tả cảm nghiệm về lòng thương xót của Thiên Chúa ra các hành động cụ thể giúp đỡ tha nhân.
Truyền thống Kitô giáo từ thời Trung cổ quen tóm lại các hành động ấy vào “14 mối thương người”, được gọi là những công việc thương xót (opera misericordiae), được Thánh Tôma Aquinô tóm lại qua động từ: visito, poto, cibo, redimo, tego, colligo, condo; tiếp đến: consule, carpe, doce / solare, remitte, fer, ora. Ngài đã giải thích rằng, chúng tương ứng thực sự với các nhu cầu thực tế của tha nhân.[50]
– Xét về thân thể, con người cần được giúp đỡ về các nhu cầu luôn luôn cần thiết. Những nhu cầu này có thể là bên trong (đồ ăn đồ uống) hay là bên ngoài (áo mặc, nhà ở). Ngoài ra con người cần được giúp đỡ về các nhu cầu xảy đến bất ưng, hoặc là bên trong (thuốc thang chữa bệnh tật) hoặc bên ngoài (thăm viếng lúc bị giam cầm, an táng khi qua đời). Như thế, 7 công tác thực sự bao gồm các nhu cầu về thân xác của cuộc sống.
– Bước sang lãnh vực tinh thần, Thánh Tôma Aquinô nói rằng, con người có thể lâm vào cảnh cơ cực về đường thiêng liêng, mà ta có thể giúp đỡ bằng cách cầu khẩn xin Chúa đến cứu giúp (tức là cầu nguyện cho họ). Tha nhân có thể túng thiếu về trí tuệ hay về khôn ngoan(ta có thể giúp bằng sự dạy dỗ, khuyên lơn). Tha nhân có thể yếu ớt về tình cảm, thì ta đến giúp đỡ bằng sự ủi an. Tha nhân có thể sai lạc về cách ăn nết ở, thì ta giúp họ bằng việc sửa bảo, tha thứ và chịu đựng. Như vậy, 14 công tác bác ái (14 mối thương người) đã bao trùm tất cả mọi nhu cầu tinh thần và thể chất của con người rồi.
KẾT LUẬN
Cũng như Thông điệp Dives in misericordia,[51] Sắc chiếu Misericordiae vultus kết thúc với một tư tưởng hướng về Đức Maria, “Mater misericordiae”. Đây là một tước hiệu đã lưu hành tại đan viện Cluny từ giữa thế kỷ X, và được đưa vào kinh “Salve Regina”.
Đức Maria là người đầu tiên cảm nhận được lòng thương xót của Thiên Chúa, khi mang chính Đấng Thương Xót ở trong lòng mình. Thay mặt cho nhân loại, Mẹ đã chúc tụng Thiên Chúa vì đã tỏ lòng thương xót với loài người trong bài ca “Magnificat”. Mẹ đã tuyên xưng lòng thương xót mà Chúa dành cho người nghèo cực túng thiếu. Mẹ còn chia sẻ lòng thương xót của Chúa, hơn nữa khi cùng tham dự vào cái chết của Con Mình trên thập giá cũng như sự Phục Sinh của Người. Mẹ không giữ riêng hồng ân cho riêng mình, nhưng chia sẻ cho đồng loại, chỉ dẫn cho họ biết đến cùng nguồn ơn thương xót: hãy làm điều Chúa dạy, hãy trở về với Chúa (xc. Ga 2,5). Được ủy thác làm mẹ của môn đệ yêu dấu (Ga 19,26), Đức Maria đón nhận những lời kêu xin của các tín hữu trong mọi cơn nguy khốn, để cứu giúp họ (Sub tuum presidium, confugimus…).
Sắc chiếu của Đức Thánh Cha Phanxicô cũng mời gọi đối thoại tôn giáo. Ngài nhắc đến đạo Do thái và đạo Islam. Ở Việt Nam, chúng ta biết “Từ bi” (một từ ngữ phổ thông hơn là “thương xót”) không chỉ là nhân đức giữa con người với nhau, mà còn là đặc tính của Đấng Chí Tôn ở vài tôn giáo nữa (Phật giáo Bắc Tông và Cao Đài). Thiết tưởng đó là một cơ hội để chúng ta tìm hiểu sâu xa hơn về lòng thương xót của Thiên Chúa.
Lm Giuse Phan Tấn Thành Op
Bài thuyết trình tại Trung Tâm Học Vấn Đaminh, ngày 14/11/2015
***
THƯ TỊCH
Del Cerro Calderón, G., Misericordia de Dios, “GranDiccionario Rialp”, Madrid, 1991.
Doglio, C., Teologia della misericordia,http://www.symbolon.net/Temi%20biblici/Misericordia/index.html
Esser, H.H., Misericordia, “Dizionario dei concetti bilici del NT”, EDB, Bologna, 1976, 1013-1023.
Romaniuk, K., La salvezza dell’uomo come opera dell’amore del Padre e del Figlio,http://www.collevalenza.it/Cesdim/Cesdim.asp?Id=08
Sisti, A., Misericordia, “Nuovo Dizionario di Teologia Biblica”, Paoline, Cinisello Balsamo, 1988, 978-984.
Saward, J., Saint Thomas on Mercy, “The Canadian Catholic Review”, March 1990.
Stackpole, R. Divine Mercy: http://thedivinemercy.org/library/dm101.php
[1] Tuy biết rằng, Sắc chiếu Misericordiae vultus (số 2) của Đức Giáo Hoàng Phanxicô mời gọi hãy “chiêm ngưỡng” những khía cạnh khác nhau của lòng thương xót của Chúa.
[2] Các Thánh vịnh được đánh số theo bản Hipri.
[3]Sách Giáo Lý Hội Thánh Công Giáo, bản dịch của Ủy Ban Giáo Lý Đức Tin/HĐGMVN, 2010, số 2447.
[4] Dựa theo Lê Gia, Tiếng nói nôm na,TPHCM 1999. Thương: đau đớn xót xa (cái “thương” đã bao hàm cái “xót” rồi; “xót” có nghĩa mài cọ, gây ra đau đớn: xót xa, xót ruột). Từ bi là gì? Từ bi: thương xót, rung động trước nỗi khổ của người khác (Từ: lòng yêu thương của người trên; bi: buồn); từ thiện: lòng lành và thương người (thiện: tốt lành). Trắc ẩn: (Trắc: thương xót; Ẩn: giấu kín) lòng thương yêu chứa đựng trong lòng; không dằn lòng trước cảnh khổ của người khác. Lân tuất: thương xót mà giúp đỡ (Lân hoặc Liên: thương xót, thương cảm; Tuất: thương xót). Lân ái (yêu mến dịu dàng). Nhân ái: yêu thương người khác như chính mình (nhân: lòng thương người mến vật; ái: thương). Nhân hậu: có lòng yêu thương người và ăn ở đầy đặn (hậu: đầy đặn, lớn lao). Nhân từ: lòng thương yêu của trên đối với dưới.
[5]Xc. St. Thomas Aquinas, Summa Theologica, II-II, q.30, a.1.
[6] Ngoài hai từ vừa kể, còn nhiều từ khác có họ hàng thân thích, tựa như: “hanan” (đại lượng), “hamal” (thông cảm), “hus” (nhân từ), “hen” (nhân hậu).
[7]St. Thomas Aquinas, Summa Theologica, II-II, q.30, a.1; xem thêm: I, q.21, a.3.
[8] Trong bản Kinh Thánh LXX, danh từ “éleos” (và những từ có liên hệ) được áp dụng 236 lần cho Thiên Chúa và chỉ 60 lần cho con người.
[9] Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolo II, Thông điệp “Dives in misericordia”, Thiên Chúa giàu lòng thương xót, 30-11-1980, số 2.
[10] Ibid., số 13.
[11] Xc. Hs 12,7; Mk 6,8; Gr 9,23; Tv 101,1; Kn 7,9.
[12] Xc. Gr 9,23; Tv 36,11; 40, 11; 85,11; 143,11tt; Cn 21,21.
[13] Xc. Tv 13,6; 40,11; 85,8; 119,41…
[14] Xc. Gr 16,5; Tv 85,11.
[15] Xc. Gr 2,2; 31,3.
[16] Xc. Ps 89,25; 98,3.
[17] Xc. Tv 23,6
[18]Sách Giáo Lý Hội Thánh Công Giáo, bản dịch của Ủy Ban Giáo Lý Đức Tin/HĐGMVN, 2010, số 210.
[19] Sách các Thủ lãnh được soạn dựa theo luận đề ấy: tội lỗi, hình phạt, hối cải, phúc lành.
[20] Các Thánh vịnh đầy dẫy những lời cầu xin Chúa xót thương, “miserere”: 4,2; 6,3;9,14; 25,16; 26,11; 31,10; 41,5.11; 51,3; 56,2; 57,2; 86,3.16; 119,29.58.132; 123,3.
[21] Bản dịch Nhóm GKPV: “Anh em hãy có lòng nhân từ như Cha anh em là Đấng nhân từ”.
[22] Thiên Chúa cứu độ chúng ta do lòng yêu thương (“agape”: Rm 5,8tt; 8,31-33; Ep 1,4; 2,4tt), do ân huệ (“kharis”: Rm 5,15.20).
[23] Một tư tưởng tương tự cũng có thể gặp thấy nơi các tác phẩm của các Tông đồ khác, chẳng hạn như: 1 Pr 2,10; 3,8; Gc 2,13.
[24] Trong Sắc chiếu này (số 4), Đức Thánh Cha nhắc đến hai đoạn văn về “misericordia”của Thánh Giáo Hoàng Gioan XXIII trong ngày khai mạc và của Chân phước Phaolô VI trong ngày bế mạc Công Đồng Vatican II.
[25]Xc. St. Thomas Aquinas, Summa Theologica, II-II, q.108.
[26] Ibid., II-II, q.117.
[27] Ibid., II-II, q.120.
[28] Ibid., II-II, q.129.
[29] Ibid., II-II, q.134.
[30] Ibid., II-II, q.157.
[31]Xc. St. Thomas Aquinas, Summa Theologica, I, q.3.
[32] Đức Giáo Hoàng Phanxicô, Sắc chiếu Misericordiae vultus, số 6.
[33]Xc. St. Thomas Aquinas, Summa Theologica, II-II, q.30,4.
[34] Có lẽ chỗ này nên dịch thành “xót xa, tiếc xót, thương hại” thì thích hợp hơn.
[35] Ví dụ như: Tôi thương xót ông A vì kho thuốc phiện của ông ấy bị cháy, thì đó không phải là nhân đức.
[36]Xc. St. Thomas Aquinas, Summa Theologica, II-II, q.30, a.3.
[37]Xc. St. Thomas Aquinas, Summa Theologica, I, q.21, a.3.
[38]Xc. St. Thomas Aquinas, Summa Theologica, I-II, q.113,9 trưng dẫn từ Thánh Augustin:“maius est quod ex impio fiat iustus, quam creare caelum et terram, …caelum enim et terra transibit, praedestinatorum autem salus et iustificatio permanebit”.
[39] Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II, Thông điệp “Dives in misericordia”, Thiên Chúa giàu lòng thương xót, 30-11-1980, số 4; 7; 12; 14.
[40] Đức Giáo Hoàng Phanxicô, Sắc chiếu “Misericordia vultus”, Khuôn mặt xót thương, 11-04-2015, số 20.
[41]St. Thomas Aquinas, Summa Theologica, I, q.21, a.1.
[42] Ibid., I, q.21, a.3.
[43] Ibid., I, q.21, a.3, ad.2m.
[44] Ibid., I, q.21, a.4, ad.1.
[45]Tv 117; Xc. Tv 25,10; 40,11-12; 85,12; 86,15; 89,15; Is 55,3; Gn 4,4; Hs 6,6; Ac 3,22; 2Sm 2,6; 15,20; Mk 7,20.
[46]Tv 30,10; 31,6; 71,22; 91,4; Is 38,18; 61,8; Gr 32,41.
[47] Đức Giáo Hoàng Benedict XVI, Thông điệp Caritas in Veritate, Bác ái trong Chân lý, số 1-9.
[48] Ibid., số 1.
[49] Ibid., số 52 và 54.
[50] Xc. Giuse Phan Tấn Thành, OP., Hiểu để sống đức tin, tập 2, Học Viện Đaminh, 2009, tr. 289-295. Xem thêm: St. Thomas Aquinas, Summa Theologica, II-II, q.32, a.2.
[51] Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolo II, Thông điệp “Dives in misericordia”, Thiên Chúa giàu lòng thương xót, 30-11-1980, số 9.