Lòng Thương Xót: Kinh Thánh Và Thần Học
Nhập đề
Thiết tưởng không phải là thừa khi nhắc lại rằng chúng ta đang tham dự một cuộc hội thảo Thần học chứ không phải một buổi tĩnh tâm. Trong một buổi tĩnh tâm, người giảng thuyết về lòng thương xót ước mong rằng những người nghe sẽ giục lòng thống hối và đi lãnh Bí tích Giao Hòa. Còn trong một cuộc hội thảo Thần học, diễn giả sẽ gợi lên cho người nghe những đề tài để tranh luận. Từ thời Trung cổ đã nảy lên hai lối tiếp cận khác nhau trong cùng một vấn đề: Thần học Đan Tu và Thần học Kinh Viện. Các đan sĩ khởi đi từ “lectio divina” và tiến đến “meditatio”, “oratio”, “contemplatio”;[1] thứ tự tại các trường Thần học thì khác: “lectio”, “quaestio”, “disputatio”.
Hiểu như vậy, trong bài thuyết trình này, tôi sẽ không đả động đến việc sùng kính “Lòng Chúa Thương Xót”, nhưng chỉ gợi lên những cuộc tranh luận chung quanh đề tài này trong Kinh Thánh và Thần học. Thật vậy, ngay tên gọi đã có vấn đề rồi: “thương xót” có nghĩa là gì? Nó có khác với “từ bi”, “lân tuất”không? Sau vấn đề từ ngữ, đến chuyện nội dung: “thương xót” là danh xưng của Thiên Chúa hay là một ưu phẩm của Ngài? Làm sao dung hòa giữa “lòng thương xót”với “sự công bình” nơi Thiên Chúa? Vấn đề này trở thành gai góc khi bàn đến hỏa ngục đời đời! Một hệ quả cụ thể liên quan đến cuộc tranh luận tại Thượng Hội Đồng Giám Mục họp hồi tháng trước về gia đình: có nên chấp nhận cho những người ly dị và tái hôn được rước lễ không? Câu trả lời có hay không tùy thuộc vào việc nhấn mạnh đến “công bình” (chân lý) hoặc “thương xót”.
Tôi xin bắt đầu với câu chuyện từ ngữ: “thương xót” là gì? Câu trả lời đơn giản nhất là:“thương xót” là danh từ tương đương với “misericordia” trong tiếng Latinh (mercy tiếng Anh). Thế nhưng có hai khó khăn được đặt lên liên quan đến việc dịch thuật. Một đàng, từ tiếng Latinh sang tiếng Việt: “misericordia” có thể chuyển dịch ra nhiều từ khác nhau; đàng khác, tiếng Latinh “misericordia” bắt nguồn từ nhiều từ ngữ khác nhau trong tiếng Hipri của Cựu ước và tiếng Hy-lạp của Tân ước. Như vậy, chúng ta gặp phải ba điểm khó khăn khi dịch thuật: từ tiếng Latinh sang tiếng Việt, và từ hai ngôn ngữ của Kinh Thánh sang tiếng Latinh.
1. Trước hết, từ tiếng Latinh sang tiếng Việt
Chúng ta hãy lấy vài thí dụ từ bản dịch Kinh Thánh của nhóm Các Giờ Kinh Phụng Vụ. Thánh vịnh 136[2] là một bài ca ngợi các kỳ công của Thiên Chúa trong lịch sử; sau mỗi câu xướng, cộng đoàn lặp lại điệp khúc: “Quoniam in aeternum misericordia eius”, được dịch là:“muôn ngàn đời Chúa vẫn trọn tình thương”. Thánh vịnh 89 mở đầu bằng lời “misericordias Domini in aeternum cantabo”, được dịch là: “Tình thương Chúa đời đời con ca tụng”. Ở Thánh vịnh 103, 8: ”Miserator et misericors Dominus:longanimis, et multum misericors”, được dịch là: “Chúa là Đấng từ bi nhân hậu, Người chậm giận và giàu tình thương”. Trong Thánh vịnh 130 (kinh Vực sâu): “quia apud Dominum misericordia et copiosa eius redemptio”, được dịch là: “bởi Chúa luôn từ ái một niềm, ơn cứu chuộc nơi Người chan chứa”. Thánh vịnh 51 mở đầu với lời cầu: “Miserere mei Deus, secundum misericordiam tuam”, được dịch là: “Lạy Chúa, xin lấy lòng nhân hậu xót thương con”. Câu 11 nổi tiếng của Thánh vịnh 85: “Misericordia et veritas obviaverunt sibi: justitia et pax sese osculentur”, được dịch là: “Tín nghĩa ân tình nay hội ngộ, hòa bình công lý đã giao duyên”.
Trong Tin Mừng Nhất Lãm, khi nói về các mối phúc, câu nói của Mt 5,7: “Beati misericordes, qui ipsi misericordiam consequuntur”, được dịch là: “phúc thay ai xót thương người, họ sẽ được Thiên Chúa xót thương”; và Mt 9,12: “Misericordiam volui et non sacrificium”, được dịch là: “Ta muốn lòng nhân chứ không thích hy tế”; còn câu nói Lc 6,36: “Estote misericordes sicut et Pater misericors est”, được dịch là: “Anh em hãy tỏ lòng nhân từ như Cha anh em là Đấng nhân từ”.
Mỗi ngày, phụng vụ ca tụng “misericordia” của Thiên Chúa qua hai bài thánh ca Tin Mừng“Benedictus” và “Magnificat”. Trong thánh ca giờ Kinh Sáng, từ “misericordia” được dịch hai cách khác nhau: “ad faciendam misericordiam cum patribus nostris”, được dịch là “sẽ trọn bềnhân nghĩa với tổ tiên”; còn “per viscera misericordiae Dei nostri nos visitavit Oriens ex alto”, được dịch là “Thiên Chúa ta đầy lòng trắc ẩn, cho Vầng Đông từ chốn cao vời viếng thăm ta”. Trong thánh ca giờ Kinh Chiều, cả hai lần “misericordia” thì lại đều được dịch là “thương xót”:“Đời nọ tới đời kia, Chúa hằng thương xót những ai kính sợ Người… Chúa nhớ lại lòngthương xót dành cho tổ phụ Abraham”.
Một thí dụ khác để kết thúc phần này. Trong kinh Lạy Nữ Vương, Đức Maria được kêu cầu như là “mater misericordiae”. Bản dịch cổ truyền là: “Lạy Nữ Vương, Mẹ nhân lành”; bản dịch của nhóm PVGK là: “Kính chào Đức Nữ Vương, Bà là mẹ xót thương”; bài ca quen thuộc của linh mục Kim Long là: “Chúng con kính chào Nữ Vương Mẹ nhân ái”. Cùng một từ“misericordia”, vậy mà có ba cách dịch khác nhau: “nhân lành”, “xót thương”, “nhân ái”, và dĩ nhiên cũng có thể dịch là “Mẹ từ bi”, như đầu đề của một số bài ca. Sau cùng, trong kinh“mười bốn thương người” thì được gọi là “các việc từ thiện”,[3] đang khi nguyên bản Latinh là“opera misericordiae”.
Tóm lại, tuy rằng từ “misericordia” quen dịch là “thương xót”, nhưng cũng có thể dịch là: “từ bi”, “từ ái”, “từ thiện”, “nhân hậu”, “nhân từ”, “tình thương”, “trắc ẩn”, “lân tuất”. Phải chăng các từ này có đồng nghĩa với nhau? Nếu chỉ dựa theo tầm nguyên, xem ra các ý nghĩa của các từ này không khác nhau cho lắm.[4] Nhưng đó mới chỉ là khái niệm sơ lược. Một câu hỏi được đặt ra: “thương xót” khác với “tình thương” ở chỗ nào? Chúng ta sẽ trở lại với vấn đề này khi phân tích các bản văn Kinh Thánh.
2. Tiếng Latinh
Trong tiếng Latinh, “misericordia”, thường được giải thích theo tầm nguyên là ghép bởi “miserum” và “cor”: trái tim xúc động trước nỗi khổ của người khác.[5] Tuy nhiên, trong Kinh Thánh, “misericordia” được dùng để dịch nhiều từ ngữ với ý nghĩa khác nhau trong tiếng Hipri và Hy-lạp.
a/. Tiếng Hipri, có hai từ chính: “hesed” và “rachamim”. “Hesed” bao hàm tình thương mang theo sự trung tín dựa trên một lời hứa, ra như có suy xét. “Rachamim”, trắc ẩn, cảm thông, dịu dàng, âu yếm, gắn với “rechem” (bụng dạ, lòng ruột), ra như muốn nêu bật tình cảm tự nhiên phát xuất từ liên hệ ruột thịt. Có thể ví hai từ này với hai thứ tình cảm, một bên là của cha, một bên là của mẹ; một bên căn cứ trên nghĩa vụ, một bên xuất phát từ bản tính.[6]
b/. Tiếng Hy-lạp có ba từ:
– “éleos”: diễn tả thái độ cảm thông (động từ elein, tỏ lòng thương xót; tính từ eleêmon, biết thương xót; eleêmosyne việc từ thiện), được dùng để dịch hesed;
– “splanchna”: gắn liền với lòng dạ, nơi xảy ra thái độ ấy (tương đương với rehamim trong Hipri) và động từ splanchnízomai (tỏ ra cảm thông);
– “oiktirmos” (danh từ) và “oiktimôn” (tính từ): diễn tả sự xúc động trước nỗi khổ của tha nhân, trắc ẩn. Từ thứ ba này ít thông dụng.
3. Misericordia là gì?
Trong tiếng Latinh, dựa theo sự phân tích tầm nguyên của Thánh Augustinô (misericordia, cor miserum), Thánh Tôma Aquinô định nghĩa như là sự thông cảm (compassio) đứng trước nỗi khổ của tha nhân (compassio super miseria aliena).[7] Lòng thương xót chỉ là một hình thái của tình yêu, chứ không đồng nghĩa với tình yêu: tình yêu dành cho người đau khổ, thiếu thốn. “Thiên Chúa là tình yêu” (1Ga 4,8), nhưng tình yêu giữa Ba Ngôi với nhau không phải là thương xót; lòng thương xót được bày tỏ đối với nhân loại, và chính xác hơn nữa, lòng thương xót được gắn liền với sự tha thứ tội lỗi. Nếu loài người không phạm tội thì có lẽ Chúa sẽ không có cơ hội thể hiện lòng thương xót. Hiểu như thế có đúng không? Dù đúng hay không, một cách thức để hiểu rõ bản chất của lòng thương xót, là đối chiếu với những hình thức tương tự hoặc tương phản với nó, cũng như những hiệu quả của nó: thương xót với tình thương, thương xót với công bình. Đó là con đường mà chúng ta sẽ khảo sát nơi các bản văn của Kinh Thánh (phần thứ nhất) và Truyền thống Thần học (phần thứ hai).