Lòng Thương Xót: Kinh Thánh Và Thần Học
II. SUY TƯ THẦN HỌC
Chúng ta không có nhiều thời giờ để rảo qua Thần học về“misericordia” trong lịch sử Thần học. Trong phần suy tư dưới đây, chúng ta dựa theo Thánh Tôma Aquinô, cùng với những gợi ý từ hai văn kiện của Huấn Quyền cận đại: “Thông điệp Dives in misericordia” của Thánh Gioan Phaolô II (30/11/1980) và “Sắc chiếu Misericordiae vultus” của Đức Thánh Cha Phanxicô(11/4/2015).[24]
Trước khi đi vào vấn đề, xin được lưu ý về từ ngữ. Ở đầu bài, chúng ta thấy rằng, “misericordia” được dịch sang tiếng Việt bằng nhiều từ ngữ: thương xót, từ bi, nhân hậu,.v.v… và tất cả xem ra đồng nghĩa. Tuy nhiên, trong ngôn ngữ của Thánh Tôma Aquinô, mỗi từ ấy có một đặc tính riêng: “misericordia” là một nhân đức thành phần của “caritas” (đức mến), khiến cho ta cảm thông với nỗi khổ của tha nhân. Ngoài ra, trong hệ trật các nhân đức, chúng ta thấy có nhiều từ ngữ lân cận, được Thánh Tôma Aquinô trình bày ở những phần khác nhau của bộ Tổng Luận Thần Học, chẳng hạn như:
– Liên quan đến nhân đức công bình: “Vindicatio” (nghiêm trị, nhằm tái lập trật tự xã hội qua việc trừng phạt đích đáng),[25] “Liberalitas” (hào phóng hoặc quảng đại trong việc ban phát);[26] “aequitas” (công minh, tìm cách thực hiện công bình vượt trên pháp luật).[27]
– Liên quan đến nhân đức can đảm: “magnanimitas” (độ lượng, nhắm đến việc đại sự),[28] “magnificentia” (hào hiệp: điều hành lòng ham mê tiền bạc).[29]
– Liên quan đến nhân đức tiết độ: “clementia” (nhân từ, giảm bớt hình phạt cho kẻ phạm pháp).[30]
Ở đây, chúng ta chỉ giới hạn vào những đoạn văn mà Thánh Tôma Aquinô bàn về“misericordia”, để phân tích những suy tư của ngài, cùng với những đóng góp của Huấn quyền và tư tưởng Thần học cận đại, mở đầu với những suy tư liên quan đến Thiên Chúa, kế đến liên quan đến phía chúng ta.
A. Lòng thương xót nơi Thiên Chúa
Theo Thánh Tôma Aquinô, lòng thương xót là một “ưu phẩm của Thiên Chúa”. Chúng ta đừng quên rằng, theo thánh nhân, bản tính Thiên Chúa thì đơn nhất, không có sự phân biệt giữa bản tính và các ưu phẩm.[31] Các ưu phẩm là những đặc tính mà chúng ta cảm nghiệm được về Thiên Chúa, dựa trên những hoạt động của Ngài trong vũ trụ.
Còn việc phát biểu bản tính và các ưu phẩm của Thiên Chúa thay đổi trải qua thời đại, chúng ta đã quá quen với việc trình bày Thiên Chúa như là Đấng Tự Hữu, dựa theo lời mặc khải cho ông Mosê: “Ego sum qui sum” (Xh 3,14-15). Ngày nay, các nhà chú giải Kinh Thánh không nghĩ rằng, đó không phải là ý nghĩa nguyên thủy của lời mặc khải: dân du mục chẳng có ý niệm gì về hữu và vô hữu! Dù sao, một đoạn văn quan trọng không kém về sự mặc khải bản tính Thiên Chúa là lời tuyên xưng của ông Mosê ở Sách Xuất hành 34,6: “Đức Chúa, Đức Chúa, Thiên Chúa nhân hậu và từ bi, hay nén giận, giàu nhân nghĩa và thành tín”. Như đã thấy trong phần thứ nhất, lời tuyên xưng này được lặp lại nhiều lần trong Cựu ước, cách riêng là trong các Thánh vịnh. Danh xưng của Thiên Chúa là “Đấng Thương xót” (hoặc Đức Từ bi: Deus meus, misericordia mea: bản dịch của GKPV: Lạy Thiên Chúa, Đấng đầy lòng yêu mến). “Misericordia” là danh xưng của Đấng Vĩnh Cửu.
1. Lòng thương xót biểu lộ sức mạnh chứ không nhu nhược
Trong Sắc chiếu Misericordiae vultus,[32] Đức Thánh Cha Phanxicô trưng dẫn tư tưởng vừa nói của Thánh Tôma Aquinô.[33] Đúng ra đây không phải là điều độc đáo của thánh nhân, bởi vì đã được tuyên xưng trong phụng vụ từ thế kỷ VIII, được trích lại trong Chúa nhật XXVI Mùa Thường Niên.
Để nắm bắt tầm quan trọng của tư tưởng này, cần đối chiếu với tư tưởng triết học Hy lạp. Phái khắc kỷ coi lòng trắc ẩn như là một nhược điểm. Lòng thương xót[34]đồng hóa với sự buồn phiền vì ghen tương, hay ít là sự thiếu cương quyết (chẳng hạn nơi một thẩm phán). Tuy nhiên, nơi Thiên Chúa thì khác: lòng thương xót không phải là dấu hiệu của nhu nhược, mà là của sức mạnh.
Thánh Tôma Aquinô phân biệt hai khía cạnh trong sự thương xót (hoặc thương hại, thông cảm):
a/. Khía cạnh cảm xúc (affective), xót xa trước cảnh khổ của tha nhân, mà mình coi như của chính mình;
b/. Khía cạnh hữu hiệu (effective), là hành động nhằm giúp đỡ tha nhân thoát khỏi cảnh khổ đó. Để lòng thương cảm trở thành nhân đức, nó phải bao gồm cả hai khía cạnh; ngoài ra nó còn phải dựa trên một điều tốt khách quan,[35] và cần được diễn ra bằng hành động tùy theo khả năng (chứ đừng thương nhau bằng đầu môi chót lưỡi).[36]
Chúng ta áp dụng quan niệm “thương xót” cho Thiên Chúa một cách loại suy: Ngài không mủi lòng xúc động (theo cảm xúc: secundum affectum) giống như chúng ta, nhưng Ngài có quyền năng để giúp đỡ những cảnh cùng khốn của nhân loại (secundum effectum). Mọi việc Ngài làm đều bày tỏ lòng quảng đại, thi ân giáng phúc: Ngài trao tặng không vì công lênh của chúng ta.[37]
Đặc biệt, Ngài bày tỏ quyền năng của lòng thương xót khi tha thứ tội lỗi cho chúng ta. Ở đây, quyền năng được bày tỏ không phải bởi vì Ngài nén được cơn giận, không trừng phạt chúng ta xứng với lỗi lầm, nhưng vì Ngài đổi mới tâm hồn chúng ta: từ kẻ thù địch trở thành con cái, và đáng hưởng gia nghiệp Thiên Quốc. Đối với Thánh Tôma Aquinô, việc thương xót và tha thứ cho tội nhân thì còn lớn lao hơn là tạo dựng đất trời,[38] bởi vì trời đất sẽ qua đi, còn người công chính sẽ được ở bên Chúa mãi mãi.
2. Thương xót với công bình và chân lý
Đề tài “công bình và thương xót” được đề cập trong Thông điệp Dives in Misericordia[39]cũng như Sắc chiếu Misericordia Vultus.[40]
Thiết tưởng có nhiều cách đặt vấn đề khác nhau, từ đó cũng có nhiều giải pháp khác nhau. Trước tiên, chúng ta hãy xem cách đặt vấn đề của Thánh Tôma Aquinô, rồi chúng ta hãy đối chiếu với cách đặt vấn đề trong Kinh Thánh.
a/. Cách đặt vấn đề dựa theo Thánh Tôma Aquinô: “Công bình và thương xót” (iustitia et misericordia) nơi Thiên Chúa.
Trong bộ Tổng Luận Thần Học, phần thứ Nhất, Thánh Tôma Aquinô đã dành câu hỏi 21 để bàn về công bình và thương xót nơi Thiên Chúa.
– Thiên Chúa là Đấng Công bình.[41] Có hai thứ công bình: công bình giao hoán và công bình phân phối. Nơi Thiên Chúa chỉ có công bình phân phối. Nơi Thiên Chúa có sự công bình vì Ngài đã phân phối mọi sự theo trật tự hài hòa và khôn ngoan.
– Nơi Thiên Chúa, công bình và thương xót trùng hợp với nhau, bởi vì bản tính của Thiên Chúa là đơn thuần.[42] Thiên Chúa luôn luôn công bình và lân tuất, cùng một lúc. Công bình giả thiết lân tuất, và dựa trên lân tuất. Khi Thiên Chúa hành sử theo lòng lân tuất thì Ngài không đi ngược lại công bình nhưng làm một điều vượt qua giới hạn của công bình; cũng tương tự như ta khi xóa một món nợ cho ai thì ta không lỗi công bình nhưng ta tỏ ra đại lượng với họ, đó là một quà tặng.[43] Kể cả khi trừng phạt kẻ bất lương, Thiên Chúa vẫn tỏ lòng lân tuất bởi vì Ngài không phạt nó hoàn toàn xứng với tội trạng.[44]
b/. Thử đặt lại vấn đề dựa theo quan điểm Kinh Thánh
Ngay từ nhập đề, chúng tôi đã lưu ý đến vấn đề từ ngữ trong tiếng Việt. “Misericordia” có thể dịch bằng nhiều từ khác nhau: thương xót, từ bi, tình thương, trắc ẩn, nhân từ, khoan hồng,.v.v… Những từ này không hoàn toàn đồng nghĩa với nhau. Một cách tương tự như vậy“iustitia” (hoặc iustus) có thể dịch là: công bình, công minh, công chính, công thẳng, chính trực, thanh liêm, ngay chính,.v.v… Nói rằng Thiên Chúa công minh thì nghe được, nhưng nếu Thiên Chúa công thẳng thì chúng ta khiếp.
Đó mới là chuyện dịch thuật. Vấn đề ý tưởng còn quan trọng hơn. Tư tưởng của người Do thái không giống như tư tưởng của người Hy lạp (hoặc Latinh).
– “Misericordia”. Đối với Thánh Tôma Aquinô, “misericordia” chỉ là một dạng của “caritas” chứ không đồng nghĩa. Nhưng trong tiếng Hipri thì “hesed” bao gồm cả hai ý nghĩa ấy. Hơn thế nữa, chúng ta thường liên tưởng đến “misericordia” khi nghĩ đến tội lỗi của chúng ta, để xin Chúa dủ lòng tha thứ. Nhưng “misericordia” của Kinh Thánh thì rộng hơn nhiều: nó bao trùm tất cả mọi công trình của Thiên Chúa, kể cả việc tạo dựng. Chúng ta có một chứng tích nơi Thánh vịnh 136: “Hãy chúc tụng Thiên Chúa vì Chúa nhân từ, muôn ngàn đời Chúa vẫn trọn tình thương”. Thiên Chúa tỏ bày “misericordia” khi tạo dựng đất trời, trăng sao,… mặc dù chẳng đả động gì đến tội lỗi con người.
– “Iustitia” của Thiên Chúa tiên vàn nói đến sự cứu độ trước khi đả động đến sự trừng phạt. Trong Cựu ước, con người kêu van “iustitia” của Thiên Chúa (nghĩa là công lý), để giải thoát họ khỏi cảnh bất công, áp bức. Trong Tân ước, Thánh Phaolô nói đến ơn “công chính hóa” (iustificatio), tức là con người được trở nên công chính trước mặt Chúa. Vì tội lỗi, con người trở thành “bất chính” (bất lương) trước mặt Chúa. Nhưng Thiên Chúa là Đấng công chính đã ban ơn công chính cho loài người nhờ Đức Kitô. Như vậy, ta đừng nên quan niệm sự công chính của Thiên Chúa như là công lý pháp đình (xét xử công minh, công bình khi luận tội); không! Thiên Chúa bày tỏ sự công bình qua việc ban ơn cứu độ: đó là hồng ân công chính cứu độ. Sự công chính này không do công trạng con người đạt được (Rm 3, 26-28; Gl 2, 16), trái với quan niệm của người Pharisêu (x. Mt 5,20; Lc 18,14).
– Đặc biệt, trong Kinh Thánh, cặp đôi “công bình và thương xót” (emet – hesed) xuất hiện đến 30 lần trong Cựu ước. Hai đặc tính này được diễn tả dưới nhiều hình thức tương đương trong bản dịch Việt ngữ: “tín thành – ân nghĩa”; “tín nghĩa – ân tình”; “nhân hậu – thành tín”;“nhân từ – chính trực” được sử dụng khá nhiều trong các Thánh vịnh: “Muôn nước hỡi, nào ca ngợi Chúa, ngàn dân ơi, hãy chúc tụng Người. Vì tình Chúa thương ta thật là mãnh liệt, lòngthành tín của Người bền vững muôn năm”.[45] Trong Tân ước, chúng ta sẽ gặp lại cặp đôi“ân sủng và chân lý” nơi Ga 1,14.17.
Cả hai đều nói lên sự gần gũi âu yếm của Thiên Chúa:
+ “emet” không chỉ có nghĩa là công bình chính trực, mà còn là trung tín với lời hứa bất chấp sự bội tín của con người;[46]
+ Còn “hesed” là lòng thương xót, khoan nhân, và cũng dựa trên lời hứa hoặc giao ước.
Như vậy, cả hai đặc tính đều dựa trên lòng đại lượng của Thiên Chúa, Ngài tự ý ràng buộc mình với con người. Các Rabbi kể chuyện như thế này. Thiên Chúa được ví như một vua có hai cái ly. Ông nói: “Nếu ta đổ nước nóng thì ly sẽ vỡ; nếu ta đổ nước lạnh thì ly sẽ nứt”. Làm sao bây giờ? Nhà vua hòa nước nóng với nước lạnh, rồi đổ vào ly và không có gì xảy ra. Thiên Chúa cũng nói như vậy: “Nếu ta dựng thế giới bằng tiêu chuẩn tình thương thì tội lỗi tràn lan; nếu ta dựng thế giới bằng tiêu chuẩn công lý thì thiên hạ không sống sót; vì ta sẽ pha trộn tình thương với công lý để dựng thế giới, hy vọng thế giới sẽ tồn tại”.