Lòng Thương Xót: Kinh Thánh Và Thần Học
I. KINH THÁNH
Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II (Thông điệp “Dives in misericordia”) cũng như Đức Thánh Cha Phanxicô (Sắc chiếu “Misericordiae vultus”) đã cung cấp cho ta một chìa khóa để đọc các bản văn Kinh Thánh: trước khi áp dụng vào tương quan giữa con người với nhau, tiên vàn “misericordia” là một đặc tính của Thiên Chúa,[8] biểu lộ bản tính của Thiên Chúa,[9] là một ưu phẩm tuyệt vời nhất của Ngài.[10] Nói khác đi, lòng thương xót không phải là một ý niệm trừu tượng, nhưng gắn liền với một chủ thể: Thiên Chúa giàu lòng thương xót; trong Tân ước, lòng thương xót mang một khuôn mặt cụ thể nơi Đức Giêsu.
Lòng thương xót của Chúa bao trùm toàn thể vũ trụ và lịch sử cứu độ. Đôi khi người ta đối chọi giữa“Thiên Chúa công bình” của Cựu ước với “Thiên Chúa thương xót”của Tân ước, nhưng điều đó không đúng. Cựu ước đã tuyên xưng“Lòng thương xót Chúa bao trùm mặt đất” (misericordia Domini plena est terra: Tv 33,5; 119, 64).“Mọi đường lối Chúa đều là thương xót và chân lý” (Tv 25,10). Tất cả công trình cứu độ bày tỏ lòng thương xót của Chúa: “Chúa nhân ái đối với mọi người, tỏ lòng nhân hậu với muôn loài Chúa đã dựng nên” (Tv 145,9).
Dù thế, có thể nói đến một sự tiệm tiến trong việc biểu lộ lòng thương xót, trải qua nhiều chặng trong Cựu ước và đạt tới tột đỉnh trong Tân ước.
A. Cựu ước
Để mở đầu, một nhận xét về từ ngữ. Trong Cựu ước, từ “hesed” được dùng 245 lần, và“rahamim” là 38 lần. Đôi khi hai từ ấy đi đôi với nhau (x. Tv 103,4: in misericordia et miserationibus). Hơn thế nữa, nhiều lần “hesed” được dùng sánh đôi với “emeth” (hésed we émeth: misericordia et veritas / fidelitas): trung thành, chân lý. Những cặp sánh đôi khác là:“mispat” (iudicium, công lý);[11] “sédaqáh” (iustitia, công chính);[12] “yésu’áh” (salutare, cứu độ);[13] “shalom” (pax, hòa bình);[14] “ahábáh” (caritas, tình yêu);[15] “emúnáh” (veritas, trung tín);[16] “tob” (benignitas, lòng nhân hậu, lòng tốt).[17]
Một cách tổng quát, Cựu ước đã mở rộng tầm nhình về “misericordia”: từ tình yêu dành cho dân tộc Israel đến tình yêu dành cho toàn thể nhân loại và tất cả muôn loài thụ tạo. Chúng ta thử ghi nhận những bước tiến từ những trang đầu của sách Sáng thế, rồi đến lịch sử của Israel (từ lúc được cứu thoát khỏi Ai cập và xuất hành cho đến các Ngôn sứ và sách Khôn ngoan).
1. Khởi nguyên
Thiên Chúa đã tạo dựng vạn vật do tình yêu; nhưng lòng lân tuất được biểu lộ cách riêng khi con người phạm tội. Đối với nguyên tổ, sau khi đã phạm tội, Thiên Chúa đã tuyên phạt, nhưng đồng thời Ngài cũng hứa ban ơn cứu độ (St 3,14: protoevangelium). Một cách tương tự như vậy, Chúa phạt Cain vì đã giết em mình, nhưng Ngài hứa sẽ che chở ông trên đường lưu lạc (St 4,15). Vào thời Noe, Chúa trừng phạt nhân loại tội lỗi, nhưng Chúa không tận diệt nhân loại: Ngài đã cứu ông Noe để bảo tồn nhân loại; hơn thế nữa, Ngài ân hận và thề sẽ không bao giờ gây cảnh tàn phá như thế nữa (St 9, 8-17). Ngài không phải là vị Thần tàn sát. Trong cuộc đối thoại với ông Abraham, Thiên Chúa cho biết là Ngài sẽ không hủy diệt thành phố Sodoma nếu tìm được mười người công chính (St 18).
2. Cuộc Xuất hành
Biến cố xuất hành là một bằng chứng của tình yêu. Thiên Chúa đã nghe tiếng kêu than của dân Israel, và nhớ lại lời hứa với các tổ phụ, cho nên ngài đã ra thay can thiệp để giải thoát khỏi cảnh áp bức nô lệ: “Ta là Thiên Chúa của cha ngươi, Thiên Chúa của Abraham, Thiên Chúa của Isaac, Thiên Chúa của Giacob… Ta thấy cảnh khổ cực của dân Ta bên Ai-cập, Ta đã nghe tiếng chúng kêu than vì bọn cai hành hạ. Phải, ta biết các nỗi đau khổ của chúng. Ta xuống giải thoát chúng khỏi tay người Ai cập, và đưa chúng từ đất ấy lên một miền đất tốt tươi, rộng lớn” (Xh 3,6-8). Ta có thể coi đây như là bước thứ nhất của kinh nghiệm về lòng thương xót của Thiên Chúa: Ngài đau xót trước nỗi khổ của dân mà Ngài đã hứa sẽ bảo vệ.
Lòng thương xót của Thiên Chúa còn được biểu lộ rõ rệt hơn nữa trên cuộc lữ hành tiến về Đất hứa. Dân Israel chóng quên những ân huệ đã nhận được, quên đi giao ước, và muốn quay về thờ lạy các thần linh khác. Thiên Chúa “nổi giận”; điều này không có gì đáng ngạc nhiên. Nhưng chính lúc sắp thi thố sự công bình thì cũng là lúc ngài nhớ lại tình thương và đã tha thứ. Qua đó ông Mosê đã khám phá ra bản tính đích thực của Thiên Chúa. Thật vậy, chúng ta thường dừng lại ở đoạn văn Xuất hành 3,13-15, khi Chúa nói với Mosê: “Ta là Đấng hiện hữu”, nhưng chúng ta bỏ qua đoạn văn Xuất hành 34,6-7: “Đức Chúa, Đức Chúa (Giavê, Giavê), Thiên Chúa nhân hậu và từ bi (misericors et clemens), hay nén giận, giàu nhân nghĩa và thành tín (patiens et multae miserationis et verax), giữ lòng nhân nghĩa(custodit misericordiam) với muôn ngàn thế hệ, chịu đựng lỗi lầm, tội ác và tội lỗi, nhưng không bỏ qua điều gì, và trừng phạt con cháu đến ba bốn đời vì lỗi lầm của cha ông”. Đây là một đoạn văn căn bản của sự mặc khải về các ưu phẩm của Thiên Chúa. Người ta đếm được 13 đặc tính (trong đó, 11 nói đến lòng thương xót – nhân hậu, và chỉ có hai đặc tính đả động đến sự công bình).
Đến đây ta có thể gọi là cấp thứ hai của cảm nghiệm về lòng thương xót: lòng thương xót đối chiếu với đức công bình: lòng thương xót vượt xa đức công bình, bởi vì ai có tội thì sẽ bị phạt cho đến ba bốn đời; nhưng lòng nhân nghĩa thì lâu bền hơn, vì kéo dài đến muôn ngàn thế hệ. Lòng thương xót được biểu lộ qua sự tha thứ lỗi lẫm (x. Xh 34, 9; Ds 14,19-21). Dù sao đi nữa, chúng ta cần ghi nhận điều mặc khải này, như Sách Giáo Lý Hội Thánh Công Giáo đã làm. Trong Cựu ước, Thiên Chúa không chỉ mặc khải như là “Đấng Tự Hữu” mà còn như là“nhân hậu và từ bi” (misericors et clemens).[18]
Chặng thứ ba của cảm nghiệm này có thể đọc thấy nơi những lời trối của ông Mosê vào lúc cuối đời, ở sách Đệ-nhị-luật 4,30-31: “Khi anh gặp cảnh ngặt nghèo, khi tất cả những điều ấy xảy ra cho anh sau này, anh sẽ trở lại với Đức Chúa, Thiên Chúa của anh và sẽ nghe tiếng Người. Thiên Chúa của anh là Thiên Chúa từ bi: Người sẽ không bỏ mặc anh, sẽ không tiêu diệt anh, sẽ không quên giao ước Người đã thề với cha ông của anh”. Sự tiến triển của quan niệm về lòng thương xót không chỉ nằm ở chỗ nó lớn hơn đức công bình, nhưng là nó được biểu lộ qua đức công bình. Thiên Chúa trừng phạt tội lỗi của dân để bày tỏ lòng thương xót của mình. Hình phạt nhằm cho họ quay trở về với Ngài để lãnh nhận các phúc lành.[19]
3. Các Thánh vịnh
Các Thánh vịnh quảng diễn lòng thương xót của Thiên Chúa cách bao quát hơn, không chỉ giới hạn vào kinh nghiệm của lịch sử Israel. Lòng thương xót là bản tính của Thiên Chúa. Chúng ta tạm phân chia các Thánh vịnh vào ba loại: thứ nhất, những Thánh vịnh ca ngợi lòng thương xót; thứ hai, những Thánh vịnh mặc khải bản tính Thiên Chúa là Đấng thương xót; thứ ba, những Thánh vịnh dạy chúng ta những bài học thực hành nhờ cảm nghiệm về lòng thương xót.
a/. Thánh vịnh ca ngợi lòng thương xót của Thiên Chúa
Những Thánh vịnh này khá nhiều, duy có điều là khi chuyển sang tiếng Việt, danh từ“misericordia” được dịch bằng nhiều từ khác nhau, như đã nói ở đầu. Lòng thương xót là một ưu phẩm của Thiên Chúa. Lòng thương xót bao trùm khắp mặt đất, như Thánh vịnh 57,11 ca ngợi: “Tình thương của Ngài cao ngất trời xanh, và lòng thành tín vượt ngàn mây thẳm” (quoniam magnificata est usque ad caelos misericordia tua, et usque ad nubes veritas tua). Chúng ta trưng dẫn vài thí dụ. Thánh vịnh 136 là một bài ca ngợi các kỳ công của Thiên Chúa biểu lộ qua việc tạo dựng và cứu chuộc, với điệp khúc: “muôn ngàn đời, Chúa vẫn trọn tình thương” (quoniam in aetenum misericordia eius, hesed). Điệp khúc ấy được lặp lại ở nhiều Thánh vịnh: “Hãy ca tụng Chúa vì Người nhân từ, muôn ngàn đời Chúa vẫn trọn tình thương” (Confitemini Domino quoniam bonus, quoniam in aeternum misericordia eius), chẳng hạn như ở đầu các Thánh vịnh 106 và 107 (ôn lại lịch sử Israel), Thánh vịnh 118 (tạ ơn sau khi giải thoát khỏi cơn hoạn nạn), hoặc cuối Thánh vịnh 100: “Bởi vì Chúa nhân hậu (suavis), muôn ngàn đời Chúa vẫn trọn tình thương (“misericordia”), qua bao thế hệ vẫn một niềm thành tín (veritas)”.
b/. Thánh vịnh mặc khải bản tính Thiên Chúa là Đấng thương xót
Nhóm thứ hai gồm những Thánh vịnh ca tụng Thiên Chúa về lòng thương xót của Ngài được diễn tả qua việc tha thứ tội lỗi. Ta có thể lấy hai Thánh vịnh điển hình: 103 và 145. “Chúa là Đấng từ bi nhân hậu, Người chậm giận và giàu tình thương” (miserator et misericors Dominus, longanimis et multae misericordiae). “Chúa nhân ái đối với mọi người, tỏ lòng nhân hậu với muôn loài Chúa đã dựng nên” (Tv 145,8-9). “Chúc tụng Chúa đi, hồn tôi hỡi, chớ khá quên mọi ân huệ của Người… Chúa là Đấng từ bi nhân hậu (miserator et misericors Dominus), Người chậm giận và giàu tình thương, chẳng trách cứ luôn luôn, không oán hờn mãi mãi. Người không cứ tội ta mà xét xử, không trả báo ta xứng với lỗi lầm… Như người cha chạnh lòng thương con cái, Chúa cũng chạnh lòng thương kẻ kính tôn. Người quá biết ta được nhồi nắn bằng gì, hẳn Người nhớ, ta chỉ là cát bụi” (Tv 103,8-10.13).
c/. Thánh vịnh dạy bài học thực hành
Khi biết rằng Chúa là đấng từ bi nhân hậu, ta hãy tín thác vào lòng thương xót, đặc biệt là tin tưởng rằng các tội lỗi của chúng ta sẽ được Ngài tha thứ. Tâm tình này được bộc lộ đặc biệt nơi các Thánh vịnh thống hối, Thánh vịnh 51: “Lạy Thiên Chúa, xin lấy lòng nhân hậu xót thương con, mở lượng hải hà xóa tội con đã phạm” (Miserere mei Deus, secundun magnam misericordiam tuam); hoặc Thánh vịnh 130: “Ôi lạy Chúa, nếu như Ngài chấp tội, nào có ai đứng vững được chăng? Nhưng Chúa vẫn rộng lòng tha thứ để chúng con biết kính sợ Ngài… Trông cậy Chúa đi, Israel hỡi, bởi Chúa luôn từ ái một niềm, ơn cứu chuộc nơi Người chan chứa” (quia apud Dominum misericordia et copiosa apud eum redemptio).[20]
4. Các Ngôn sứ
Nơi các Ngôn sứ, những tư tưởng trên đây được lặp lại, chẳng hạn như những lời chúc tụng lòng thương xót của Thiên Chúa qua các công trình cứu độ (xc. Is 63,7-9). Các Ngôn sứ không ngần ngại ví tình thương của Ngài như người cha, người chồng, người mẹ. Người mẹ không thể nào quên đứa con mình ra cưu mang (Is 49,15). Người chồng chung thủy không bỏ rơi người vợ thất tín (Hs 2,16-25; Gr 2,2; 3,1; 31,20; Ed chương 16 và 23); Hosea cũng có lúc mô tả Thiên Chúa như người cha âu yếm đã từng nuôi dưỡng đức con thơ (Hs 11,1-8). Tất cả đều nhằm kêu gọi Israel trở về với giao ước, tin tưởng vào lòng thương xót của Thiên Chúa, Ngài sẽ bỏ qua tất cả mọi lỗi lầm (Is 38,10; 43,25; Ge 2,12-13).
Một sự tiến triển về chiều rộng của lòng thương xót có thể nhận thấy nơi câu chuyện ông Giona, khi ông nhìn nhận rằng lòng thương xót của Chúa không chỉ giới hạn vào dân tộc Israel mà còn mở rộng đến mọi dân tộc.
Đó cũng là kết luận của Sách Khôn ngoan. Thiên Chúa muốn tỏ lòng thương xót đối với mọi loài, bởi vì muôn loài đều do Chúa dựng nên:“Trước Thánh Nhan, toàn thể vũ trụ ví tựa hạt cát trên bàn cân, tựa giọt sương mai rơi trên mặt đất, Nhưng Chúa xót thương hết mọi người, vì Chúa làm được hết mọi sự. Chúa nhắm mắt làm ngơ, không nhìn đến tội lỗi loài người, để họ còn ăn năn hối cải. Quả thế, Chúa yêu thương mọi loài hiện hữu, không ghê tởm bất cứ loài nào Chúa đã làm ra, vì giả như Chúa ghét loài nào, thì đã chẳng dựng nên… Lạy Chúa Tể là Đấng yêu sự sống, Chúa xử khoan dung với mọi loài, vì mọi loài đều là của Chúa” (Kn 11,22-26).
Tóm lại
Chúng ta có thể tóm lại “Thần học về Thiên Chúa thương xót” của Cựu ước như sau:
– Thiên Chúa là “Đấng từ bi và hay thương xót” (hanán wé-rahztm:misericors et miserator, 11 lần); “từ bi và chính trực” (misericors et miserator et iustus 2 lần: Tv 112,4; 116,5); “nhân hậu và từ bi, chậm giận, giàu lòng thương xót” (miserator et misericors, longanimis et multae misericordiae: x. Ds 14,18; Gl 2,13; Gn 4,2; Tv 86,15; 103,8; 145,8; Nkm 9,17; Cn 14,29; 15,18; 16,32).
– “Lòng thương xót của Ngài hằng cửu” (aeterna est misericordia: Tv 118; 136; 2 Sbn 5,13; 7,6; 20,21; Et 3,11). Câu này có thể giải thích hai cách:
+ Lòng thương xót của Thiên Chúa thì hằng cửu, không bao giờ chấm dứt (x. Tv 23,6; 89,3; 103,17; 138,8);
+ Đấng Hằng Cửu (Thiên Chúa) là Đấng thương xót: bản tính của Ngài là thương xót. Cùng với tính hằng cửu, ta cũng nói đến tính “phổ quát”, bao trùm hết mọi người (Xh 34,7; Tv 103,8-14; Hs 11,9; Gn 4,2-11; Kn 11,24; Hc 18,13); “bao la”, không giới hạn không gian và thời gian (Tv 5,8; 51,3; 69,14; 86,5.15; 106,7.45; Hc 2,23; 17,28; 35,26;v.v…).
– Lòng thương xót của Chúa bao trùm tất cả những nhu cầu của con người, xét như tập đoàn của như cá nhân. Thiên Chúa cảm thông với những nổi khổ của nhân loại, và đến cứu giúp họ. Ngài cam kết sẽ cứu giúp Israel, vì thế Ngài cảm thông những đau khổ của họ, như đã thấy trên đây. Nhưng các cá nhân cũng tin tưởng vào lòng nhân từ của Chúa, nên họ chạy đến với Ngài trong mỗi cơn nguy khốn, chẳng hạn như: bệnh tật (Tv 6,3; 41,11), nghèo túng(Tv 25,16), xao xuyến (Tv 10,18; 41,11; 57,2; 118,4 tt.), bị bách hại (Tv 56,2). Đặc biệt, con người van nài lòng thương xót của Chúa khi đã phạm tội với Ngài như chúng ta đã nói trên đây.