Cuối Năm thánh Lòng Chúa Thương Xót, Đọc Truyện Ông Giu-se Trong Cựu Ước
Hồi kết : tìm được anh em
Giu-se đã đi hết con đường gian khổ nhiều chặng do anh em đẩy ông vào, và chỉ có Thiên Chúa ở với ông. Giu-se dẫn các anh trải qua mấy chặng đường gian khổ do chính ông bày ra và cầm chịch. Ông đã làm cho lòng hiếu thảo và tình anh em đích thực nảy sinh và nối kết họ : biến tình đồng lõa thuở nào thành tình anh em đích thật, đến chỗ dám hiến mạng sống cho nhau, và đổi sự thờ ơ đối với cha nên tình hiếu thảo đích thật, đến nỗi sẵn sàng hiến mạng để cha đuợc sống. Sự khác biệt do “khác mẹ” gây ra đã đuợc hàn gắn trong tình “cha chúng tôi”.
Cuộc thử thách đã mang lại kết quả tuyệt vời. Giu-se không thể tiếp tục cuộc thử thách. Lần đầu ông lánh ra chỗ khác mà khóc ; lần thứ hai ông vào phòng riêng mà khóc. Lần này thì khác : “Ông Giu-se không thể cầm lòng trước mặt tất cả những người đứng bên ông, nên ông kêu lên : “Bảo mọi người ra khỏi đây !” Khi không còn người nào ở với ông, ông mới tỏ cho anh em nhận ra mình. Ông òa lên khóc, và người Ai-cập nghe được, triều đình Pha-ra-ô cũng nghe thấy.”
Bao nhiêu năm niềm hy vọng gặp lại em, gặp lại cha tưởng đã bị chôn vùi. Giu-se đã gởi tâm sự này khi đặt tên đứa con đầu tiên : “Đức Chúa đã làm cho tôi quên đi mọi gian khổ của tôi và tất cả nhà cha tôi”. Hôm nay Đức Chúa lại làm việc kỳ diệu vuợt quá sức chờ đợi : em út đây, mười anh đây, trong tình anh em chân thật nhất. Niềm vui vỡ òa trong tiếng khóc.
“Ông Giu-se nói với anh em : “Tôi là Giu-se đây ! Cha tôi còn sống không ?”
Lời ông như bom nổ. Anh em ù tai, hoa mắt : “Nhưng anh em không thể trả lời ; thấy mình trước mặt ông, họ bàng hoàng.” Hôm ở Đô-than, Giu-se vừa tới gần các anh thì họ xông vào lột áo và quăng cậu xuống giếng. Hôm nay họ bàng hoàng thì “Ông Giu-se nói với anh em : “Hãy lại gần tôi”. Họ lại gần. Ông nói : “Tôi là Giu-se, đứa em mà các anh đã bán sang Ai-cập”.
Lúc nãy Giu-đa nói “Thiên Chúa đã phơi bày tội của các tôi tớ ngài ra”, vì nghĩ rằng quả thật họ can tội ăn cắp. Nhưng bây giờ mới là lúc phơi bày tội thật của họ, tội bán em sang Ai-cập : chính đứa em bị bán đang đứng trước mặt các anh và nói rõ cái tội đó.
Giu-se giải thích ý nghĩa của chuyện này trong kế hoạch của Thiên Chúa : “Nhưng anh em đừng buồn phiền, đừng hối hận, vì đã bán tôi sang đây : chính là để duy trì sự sống mà Thiên Chúa đã gửi tôi đi truớc anh em”. Thật vậy, đây là năm thứ hai có nạn đói trong xứ, và sẽ còn năm năm nữa không cày không gặt. Thiên Chúa đã gởi tôi đi trước anh em, để giữ cho an hem, một số người sống sót trong xứ, và để cứu sống anh em, nhằm thực hiện cuộc giải thoát vĩ đại. Vậy không phải các anh đã gởi tôi đến đây, nhưng là Thiên Chúa…”
Ngày nào năm xưa, cha sai Giu-se lên đường đến với anh em để đem tin về cho cha. Hôm nay Giu-se mới đến được với anh em và sai chính anh em về đem tin cho cha : “Anh em hãy mau về với cha tôi và thưa người rằng : “Con trai cha là Giu-se nói thế này : Thiên Chúa đã đặt con làm chúa toàn cõi Ai-cập ; xin cha xuống đây với con, đừng trì hoãn”.
Ngày nhận được chiếc áo của Giu-se đầy máu, ông Gia-cóp đã nói : “Cha sẽ để tang mà xuống âm phủ với con cha”. Hôm nay Giu-se nhắn ông xuống với con, nhưng không phải xuống âm phủ mà xuống Ai-cập !
Mấy lần nói với anh em, Giu-se luôn hỏi về “cha của các ngươi”. Hôm nay ông sai họ về đem tin cho “cha của tôi”. Cha của anh em là cha của tôi. Lời biện hộ của Giu-đa đã làm cho lời khai lần đầu thành sự thật : “… Các tôi tớ ngài là mười hai anh em, chúng tôi là con cùng một cha, ở đất Ca-na-an, đứa út hiện đang ở nhà với cha, còn một đứa thì không còn nữa”. Ông hỏi “cha tôi còn sống không ?” nhưng không cần họ trả lời nữa, vì lời trần tình thống thiết của Giu-đa đã xác nhận điều ấy rồi.
“Bấy giờ ông bá cổ Ben-gia-min em ông mà khóc ; Ben-gia-min cũng gục vào cổ ông mà khóc. Rồi ông hôn tất cả các anh và ôm họ mà khóc, sau đó anh em ông nói chuyện được với ông.” Chú ý là chỉ có Giuse và Ben-gia-min khóc, không thấy mười người anh khóc. Nhưng họ nói chuyện đựợc với ông.
Thế là câu chuyện chính “đi tìm các anh” đã kết thúc. Trong thời “gieo gió”, “các anh thấy cha yêu cậu hơn tất cả các anh, thì sinh lòng ghét cậu và không thể nói năng tử tế với cậu”. Khi bão nổi lên thì Giu-se một mình gánh chịu, và ở nhà thì ông Gia-cóp nói “tất cả đổ lên đầu tao”. Cũng tại ông, con yêu con ghét, nên mới ra nông nỗi này. Những nỗi đau và nuớc mắt của Giu-se đã biến đổi tất cả. Giu-se không chỉ là “ông tướng chiêm bao” mà còn là “tiên tri” để giải nghĩa đuờng lối nhiệm mầu của Thiên Chúa và báo trước “cuộc giải thoát vĩ đại”. Trong khi mọi người bỏ ông thì có Chúa ở với ông. Ông không oán hận vì ông nhận ra kế hoạch của Thiên Chúa. Ông gánh chịu tất cả để duy trì sự sống cho gia đình. Hôm nay thì họ đã tỏ ra xứng đáng là anh của ông : liên đới với nhau, Giu-đa thí mạng sống vì em và vì cha và nói chuyện được với ông.
Nhưng câu chuyện chưa thể kết thúc, còn phải thấy ông Gia-cóp nhận tin và hồi sinh thế nào. Pha-ra-ô truyền gởi “xe của Ai-cập về chở đàn bà con trẻ, rước cha” ; Giu-se gởi “mười con lừa chở những thứ tốt nhất của Ai-cập và mười con lừa cái chở lúa mì, bánh và lương thực để cha dùng khi đi đường. Rồi ông tiễn họ lên đường và bảo họ : “Đừng cãi cọ dọc đuờng”. Lời dặn dò cuối cùng của Giu-se thật thấm thía. Đã trở thành anh em thật rồi, thì đừng cãi cọ dọc đường. Ông đã tha hết cho họ thì họ cũng đừng cấu xé nhau nữa.
Một cảnh tưng bừng chưa hề có bỗng diễn ra trước nhà ông Gia-cóp. Các con ông vào nhà hớn hở báo tin cho ông : “Giu-se còn sống và hiện làm tể tướng trên khắp cõi Ai-cập”. Đến phiên ông Gia-cóp chết lặng : “Nhưng lòng ông không hề xúc động, vì ông không tin họ. Khi họ thưa lại với ông tất cả những lời ông Giu-se đã nói với họ, và ông thấy xe cộ Giu-se đã cho về rước ông, thì tâm thần ông Gia-cóp, cha họ, mới hồi sinh” : “Thế là đủ ! Giu-se, con cha vẫn còn sống ! Cha sẽ đi để nhìn thấy nó trước khi chết”.
“Ông Gia-cóp đã sai ông Giu-đa đi trước đến với ông Giu-se, để ông Giu-se tới Gô-sen gặp ông. Khi họ đến đất Gô-sen, thì ông Giu-se cho thắng xe và lên Gô-sen đón ông Ít-ra-en, cha ông. Khi hai cha con vừa thấy nhau thì ông Giu-se bá cổ cha và gục đầu vào cổ cha mà khóc hồi lâu. Ông Ít-ra-en nói với ông Giu-se : “Phen này, cha chết cũng được, sau khi đã thấy mặt con, và thấy con còn sống”.
Có thể kết thúc cuốn phim với hình ảnh đoàn tụ tuyệt vời này.
Khi sai các con xuống Ai-cập lần thứ hai, ông Gia-cóp nói : “Xin Thiên Chúa tòan năng làm cho ông ấy chạnh lòng thương các con…” Nhưng Thiên Chúa đã làm hơn thế nhiều trước khi ông Gia-cóp cầu xin. Qua tất cả những gì đã xảy ra, Thiên Chúa ở với Giu-se và chính Thiên Chúa sai Giu-se đi trước để cứu sống cả gia đình. Chính Thiên Chúa đã tỏ lòng thương xót và Giu-se trở thành công cụ của lòng thương xót. Giu-se đã tỏ lòng thương xót các anh, không oán hận. Giu-se đã biến lòng hận thù, ghen ghét của các anh thành tình huynh đệ đích thật. Mỗi lần thử thách các anh thì Giu-se ẩn mình mà khóc. Khi đã tìm được anh em thì Giu-se òa khóc, đến nỗi dù người Ai-cập đã bị đuổi hết ra ngoài, họ vẫn nghe được, và cả triều đình Pha-ra-ô cũng nghe thấy.
Lời bạt : âm vang chuyện ông Giu-se trong Tân Ước.
Lời cuối cùng của ông Gia-cóp khi đã gặp lại con, không thể không gợi nhớ lời ông già Si-mê-ôn trong Tin Mừng Lu-ca. Trong sách Tin Mừng này ba lần Chúa Giê-su khóc thương thành Giê-ru-sa-lem vì họ từ chối Chúa (Lc 13, 34-36 ; 19, 41-44 ; 23, 28-31). Giu-se cũng khóc ba lần : hai lần khi cố tình thử thách các anh và lần thứ ba khi đã biến đổi được các anh.
Tin Mừng Mát-thêu kể Chúa Giê-su Phục Sinh trao cho bà Maria Ma-đa-le-na và một bà khác cùng tên, sứ mạng “Về báo cho anh em của Thầy để họ đến Ga-li-lê. Họ sẽ gặp Thầy ở đó”. Mạch văn cho thấy không phải anh em ruột thịt của Chúa nhưng là các môn đệ. Mat-thêu mở đầu Tin Mừng với gia phả, khởi từ Áp-ra-ham đi xuống tới Chúa Giê-su. Nhưng Chúa Giê-su không phải là điểm kết thúc mà là điểm khởi đầu mới của dòng dõi Áp-ra-ham. Chúa Giê-su được sai đi tìm anh em. Giu-se bị giết nhưng Thiên Chúa không để ông chết, cũng như I-xa-ác được đem làm của lễ toàn thiêu nhưng Thiên Chúa không để ông bị giết. Còn Chúa Giê-su thì Thiên Chúa để chết thật rồi sống lại, và nhờ thế mà dòng dõi Áp-ra-ham được nên nhiều như sao trời cát biển qua phép rửa. Môn đệ là anh em của Chúa Giê-su, thế mà Chúa truyền làm cho muôn dân trở thành môn đệ, nghĩa là làm cho muôn dân thành dòng dõi Áp-ra-ham nhờ đức tin và phép rửa (x. Rm 9-11 ; Gl3-4).
Tin Mừng Gio-an còn rõ hơn. Suốt thời gian rao giảng, Chúa Giê-su luôn nói về “Cha của tôi”. Sau khi phục sinh thì Chúa sai Bà Maria Ma-đa-le-na : “Hãy đi gặp anh em của Thầy và nói với họ : “Thầy lên cùng Cha của Thầy cũng là Cha của anh em, lên cùng Thiên Chúa của Thầy, cũng là Thiên Chúa của anh em.” Anh em ở đây cũng không phải là anh em ruột thịt, nhưng là các môn đệ. Sau tiệc cuới Ca-na thì Chúa xuống Ca-phác-na-um cùng với thân mẫu, anh em của Chúa và các môn đệ. Nhưng ở chương thứ bảy thì Chúa chia tay với anh em, “họ không tin vào ngài”. Chỉ còn môn đệ đi với Chúa. Ở bữa Tiệc Ly thì Chúa âu yếm gọi họ là “những đứa con bé nhỏ”, giống như ông Giu-se nói với Ben-gia-min khi gặp lại. Sau đó Chúa tuyên bố họ là bạn hữu. Rồi khi Chúa đã phục sinh thì họ là anh em của Chúa : “Cha của Thầy cũng là cha của anh em”. Chúa phải trải qua cái chết mới làm cho họ thành anh em của Chúa. Ông Giu-se thì luôn hỏi các anh về “cha của các ngươi”, rồi cuối cùng mới cho biết “cha của các ngươi” chính là “cha của tôi.”
Chân dung “Người môn đệ yêu dấu” trong phần cuối của Tin Mừng Gioan (13-21) cũng có nhiều nét phảng phất hình ảnh Ben-gia-min trong lời chúc phúc của ông Môsê (x. Đnl 33, 12).
Giê-ru-sa-lem, ngày lễ thánh Mat-thêu 2016
L.M.Nguyễn công Đoan S.J.