Truyện ngắn: NGƯỜI CHA HIỀN | 13. Người Cha Hiền
Truyện ngắn: NGƯỜI CHA HIỀN | 13. Người Cha Hiền
Tác giả: Song Nguyễn
Cha là bóng mát giữa trời
Cha là điểm tựa muôn đời của con.
(Sưu tầm)
Trong thời gian thường huấn của nhà Dòng chúng tôi, các chị em cùng năm khấn được chia thành nhiều tổ, mỗi tổ ba người để đồng hành và giúp nhau trong học tập, theo thứ tự A,B,C… Rất may là chị Xuân Trúc cùng tổ 4 với hai chị em khác rất dễ thương, cùng âm Tr, ghép lại thành: Trâm – Trà – Trúc. Chúa đã an bài cho ba chị người nào cũng giỏi giang, nhưng tính tình có hơi khác nhau. Dù vậy, các chị cũng biết thông cảm và nâng đỡ nhau.
Tổ 4 thường được chị trưởng đoàn đưa ra để làm gương cho các tổ khác. Vì thế, các chị luôn cố gắng sống tốt và lấp dần khoảng cách với nhau. Chẳng hạn, các chị ăn mặc áo quần cùng màu, cùng kiểu với nhau và giúp nhau để cùng đạt kết quả tốt trong mọi môn học như môn tu đức, nhân bản, đời sống thánh hiến…
Mặc dù tổ này có chị đàn hay và văn nghệ rất giỏi, chị là ca trưởng trong nhà Dòng, nhưng học hành thì hai chị kia phải kéo mãi mới bằng các chị được. Vì là nghệ sĩ tính nên tính chị này rất phóng khoáng, nhưng giờ giấc kỷ luật thì chị rất hay quên, các chị kia phải nhắc chị mãi. Còn một chị khác thì giỏi văn chương thơ phú nhưng tính tình thì chẳng có “hồn” thơ chút nào. Chị rất nóng nảy, hay giận hờn, đối thoại gặp điều gì không đúng ý là chị phản ứng dữ dội, nhưng chỉ trong giây lát, rồi sau đó lại hòa hoãn ngay. Còn chị Xuân Trúc thì sống tình cảm, hiền lành và dễ hòa đồng với mọi người. Trong nhà Dòng, từ Bề trên đến các chị em khác đều quý mến chị. Vì thế, chị được bầu làm trưởng tổ.
Thế rồi chưa hết ngày thường huấn, chị Xuân Trúc phải đi công việc chung của Dòng. Ở nhà, chị Trâm và chị Trà trong giờ nghỉ giải lao đã trò chuyện trao đổi với nhau thế nào mà sau đó hai chị giận nhau và nhất định không sinh hoạt chung với nhau nữa.
Khi công tác xong, chị Xuân Trúc trở về, chỉ có chị Phương Trâm ra đón, còn chị Thanh Trà không thấy đâu cả. Gặng hỏi mãi, chị Trâm mới kể cho chị Xuân Trúc nghe chuyện xảy ra giữa hai chị.
Số là gần ngày lễ khấn của Dòng, hai chị khoe về cha đỡ đầu của mình. Sau đó, ai cũng đứng về góc cạnh của mình để đưa ra phê phán về cha đỡ đầu của người khác một cách quyết liệt, không ai chịu ai. Thế là hai chị giận nhau, đến nỗi chị trưởng đoàn phải can thiệp.
Do đó, khi chị Xuân Trúc lên chào chị trưởng đoàn, chị trưởng đã cho chị Xuân Trúc biết tổ 4 có sự rạn nứt và có nguy cơ đổ vỡ. Phải khó khăn lắm chị Xuân Trúc mới gặp được chị Trâm và chị Trà. Sau khi nghe mỗi chị trình bày về nhận định của mình, chị Xuân Trúc cười và nói với hai chị:
– Ôi, tính tình của mỗi cha là quà tặng của Chúa Thánh Thần ban cho các ngài. Dù các ngài có những khuyết điểm, những yếu đuối, các ngài vẫn tỏa sáng ơn Chúa. Chúng ta đâu có thể bắt các ngài phải thế này hay thế kia theo ý mình được. Thôi hai chị làm hòa với nhau để chúng ta tiếp tục hành trình học hỏi của mình nhé!
Nhờ uy tín của chị Xuân Trúc, hai chị đã bắt tay làm hòa với nhau. Sau đó chị Xuân Trúc nói:
– Em thấy cha đỡ đầu của các chị mỗi người đều có những nét riêng, nhưng nhìn chung đều tuyệt vời. Cha của em cũng vậy, chắc các chị đã biết nhiều, nếu có dịp, em sẽ kể cho hai chị nghe về cha đỡ đầu của em. Chúng ta cùng mừng cho nhau vì chúng ta đều có những người cha tinh thần thật tuyệt vời.
Đã từ lâu, hai chị có nghe nhiều về cha đỡ đầu của chị Xuân Trúc, hai chị rất quý mến, nhưng chưa có dịp tiếp xúc. Vì thế, khi chị Xuân Trúc mở lời, các chị đã nói ngay:
– Chị kể về cha tinh thần của chị cho chúng em nghe đi!
Chị Xuân Trúc đồng ý và lấy hơi thật dài, để tạo sự hồi hộp cho hai chị, rồi chị bắt đầu kể:
– Cha của em năm nay đã ngoài bảy mươi tuổi, cái tuổi mà người đời cho là tuổi trung thọ. Tuy với tuổi này, cha vẫn làm việc cật lực. Nào là lo cho Giáo phận, nhà thờ, nhà xứ, quý Cha, quý Thầy, quý Dì… rồi đến việc lo cho con cái… vì người giữ một chức vụ quan trọng trong Giáo phận. Có lẽ vì nhiệt tâm với nhiều công việc và lo lắng cho công việc chung nên tình trạng sức khỏe của cha cũng “xuống cấp”. Tuy vậy, người vẫn giữ một phong thái của một người lãnh đạo, một người cha, một người thầy và sức làm việc của người vẫn không hề giảm. Cha không lúc nào than thở về công việc hay trách nhiệm của mình; ngược lại, người luôn tin tưởng vào sự quan phòng của Thiên Chúa. Có thể nói rằng: niềm vui và hạnh phúc của cha chính là sự hiểu biết, quan tâm, chăm sóc cho đoàn chiên và hiến mạng sống mình để phục vụ đoàn chiên như Đức Kitô.
Mặc dù bận rộn với nhiều công việc, nhưng cha không bao giờ bỏ cầu nguyện. Sáng sớm, người dâng lễ và ở lại cầu nguyện lâu giờ trước Thánh Thể. Sau giờ nghỉ trưa, người dành một giờ cầu nguyện với Kinh Mân Côi. Người rất sùng kính Đức Maria. Tối đến, sau giờ kinh tối, người còn quỳ lâu giờ để cám ơn Chúa. Nhờ đời sống cầu nguyện, cha luôn sống vui tươi và bình an, bác ái với mọi người, chấp nhận những yếu đuối của bản thân và người khác, khiến có lần em phải thắc mắc:
– Thưa cha, tại sao con thấy cha luôn vui vẻ, dù có những căn bệnh thập tử nhất sinh hằng ngày đang đe dọa cha?
Cha nói một cách xác tín:
– Không có gì là ngoài thánh ý của Thiên Chúa, con ạ.
Câu nói của cha khiến em nhớ lại cuộc đời của cha từ lúc làm linh mục đến hôm nay đều được Thiên Chúa dẫn dắt một cách nhiệm mầu. Trước năm 1975, cha em đã một thời là nhà giáo, người là giám đốc một trường lớn ở thị xã. Sau này vì công việc Giáo phận, cha không tiếp tục công tác giáo dục ở trường nữa. Với lòng yêu mến Giáo phận, cha sẵn sàng cộng tác và dùng mọi trí năng để phục vụ Giáo hội. Nhưng cho đến nay, sau hơn hai mươi lăm năm, dù cha không còn dạy học nữa, nhưng biết bao nhiêu người học trò cũ vẫn yêu mến, họ thường đến thăm cha và xin người hướng dẫn như một người thầy của mình.
Cha còn là một nhà văn đầy tính hiện thực và thẩm mỹ. Các tác phẩm của cha chứa đầy tính nhân văn, với khả năng phân tích, lý giải hiện thực hết sức tinh tế và với một vốn kinh nghiệm hết sức phong phú về cuộc sống và con người. Qua đó, em cũng thấy được sự thao thức và lòng yêu mến của người đối với Giáo hội, với từng thành phần dân Chúa, đặc biệt là với những người sống đời tu trì. Cho đến hôm nay, dù tuổi già sức yếu, cha vẫn viết sách để chia sẻ cho đời những tâm tình, những bài học làm người, làm con Chúa.
Những tác phẩm đó như nguồn suối tình yêu luôn chảy đến lòng người và không bao giờ vơi cạn; còn những bài học nhân bản và tâm linh thì rất hiện thực và sâu sắc, có thể áp dụng vào từng hoàn cảnh của con người, dù là giới tu trì hay giáo dân, dù có đạo hay không có đạo. Hầu hết những thời gian dùng để thư giãn ngoài giờ làm việc, cha đều tận dụng để viết sách. Viết sách có thể gọi là một nỗi đam mê thánh thiện của cha. Cha muốn phục vụ Giáo hội và con người bằng những tác phẩm của mình, nhiều lúc cha quên cả thời gian nghỉ ngơi.
Rất nhiều người, cả người sống đời tu trì cũng như giáo dân đã đến xin nhận cha đỡ đầu. Cha em đón nhận tất cả và khiêm tốn nói:
– Chúng con nhận cha thì Chúa sẽ lo cho các con, còn cha thì chẳng có gì để cho chúng con, ngoài lời cầu nguyện…
Nhưng em thấy rằng, cha đã cho con cái thiêng liêng rất nhiều, đó là tấm gương sáng của một người cha âm thầm cầu nguyện, hy sinh, quảng đại và vị tha. Cha còn cho con cái chính cuộc sống của một người hết lòng vì Giáo hội. Phương Thảo, một người con tinh thần của cha em có lần kể cho em nghe rằng:
– Mình vì bất mãn với cha xứ mà bỏ lễ nhiều ngày, nhưng khi tiếp xúc với cha, mình mới thấy cảm thương cho những yếu đuối của cha xứ, mình không còn giận ngài nữa. Cha mình nói: dù con người linh mục có nhiều yếu đuối, nhưng Chúa vẫn chọn để làm nên những điều kỳ diệu cho Giáo hội. Hãy thông cảm và cộng tác, giúp đỡ các ngài…
Đã có nhiều lần em và cha ngồi hàn huyên kể chuyện và tâm sự lâu giờ với nhau về cuộc sống, về những suy nghĩ và lựa chọn. Em đã kể lại cho cha những khó khăn, thử thách em đã gặp trong đời sống tu trì và cha em đã cho em những kinh nghiệm, những chỉ dẫn cần thiết; còn cha, cha thường kể cho em về thời trai trẻ của cha với rất nhiều thăng trầm trong các chức vụ được giao phó, nhưng nhờ ơn Chúa, cha đã hoàn thành cách tốt đẹp.
Tuy giữa em và cha có khác nhau nhiều thế hệ, nhưng dường như người rất hiểu em. Sau thời gian khấn trọn, em được nhà Dòng chuyển đến một cộng đoàn gần thị trấn. Lúc đầu, em thấy lo lắng vì mình không còn có chị em, nhất là những người chị em cùng lớp để nâng đỡ nhau. Nhưng thật may cho em, em được phục vụ tại nhiệm sở cha đỡ đầu của em.
Ở gần cha, thời gian đầu với nhiều công việc mới lạ làm em bỡ ngỡ, rồi đôi lúc em nản lòng vì thấy dường như mình chẳng thích hợp với các công việc đó. Nhất là khi những người xung quanh cứ nói ra nói vào, chẳng hạn: em ở đây thật lãng phí tài năng, hoặc em ở đây thật tội nghiệp… và nhiều điều khác nữa. Những lúc đó, cha em thường động viên và khích lệ em, người còn làm gương sáng cho em bằng nhiều cách, để em thấy rằng: đối với Chúa, không có việc gì là cao cả và việc gì là tầm thường cả, chỉ có tình yêu mới đáng kể. Người con cho em thấy gương sáng của bao nhiêu người và bao nhiêu vị thánh đã nên thánh bằng những công việc rất bình thường, nhưng họ đã làm với một tình yêu rất phi thường.
Nhờ vậy, em đã dần thích nghi với công việc và chu toàn tốt các công tác được giao phó…
Nghe chị Xuân Trúc kể đến đó, chị Thanh Trà liền nói:
– Chị thật may mắn. Em nghe nói cha đỡ đầu của chị hiền lành và dễ gần lắm phải không?
– Chị nói đúng, cha của em rất hiền lành, những ai đã từng gặp cha đều có nhận xét như thế. Đặc biệt, người rất gần gũi với mọi người, dù bây giờ người đang giữ một chức vụ rất quan trọng trong Giáo phận. Em nhớ có lần quý Dì đến mượn địa điểm tĩnh tâm nơi cha ở. Sau thời gian đó, quý Dì muốn gặp cha để cám ơn, nhưng lại sợ không dám, vì thấy cha quá cao trọng, nên họ chỉ mời cha phụ trách đến cám ơn. Biết thế, cha phụ trách đã mời cha và cha đến chào thăm quý Dì rất vui vẻ và thân tình, khiến quý Dì không thể ngờ. Sau này, quý Dì đã nói lại với em rằng:
– Cha hiền lành và thánh thiện quá. Người là vị thánh nhân hậu trong lòng chúng em!
Không phải riêng em, hoặc quý Dì, mà những người sống gần cha đều có nhận xét như vậy. Chỉ nụ cười thôi cũng toát ra được vẻ thánh thiện đó. Có lần gặp cha, em đã hỏi thăm cha:
– Thưa cha, cha có khỏe không ạ?
– Cha khỏe không bằng con. – Cha vừa cười vừa nói.
Em nhìn cha vẻ bí mật:
– Nhưng con thấy cha vẫn còn khỏe hơn con đấy!
– Sao con lại nói thế? – Cha hỏi lại.
– Bởi vì con thấy cha cười tươi hơn con…
Thế là cha và em phá ra cười…
Sau ba năm phục vụ nơi đó, em lại được thuyên chuyển đến một cộng đoàn khác, ở vùng sâu vùng xa, cách cộng đoàn cha ngàn trùng. Dù em rất vui vì được Dòng cho đi truyền giáo, đó là mơ ước từ lâu của em, nhưng em vẫn thấy buồn vì phải xa cha.
Rồi vào một buổi chiều, em đến thăm cha, người vẫn chào đón em bằng nụ cười phúc hậu. Thấy em có vẻ buồn, người liền hỏi em:
– Có chuyện gì xảy đến cho con sao?
Em trả lời:
– Thưa cha, con sắp chuyển đi nơi khác rồi…
Cha dường như đã biết chuyện em được chuyển đi nơi khác, nhưng người vẫn hỏi em:
– Nhà Dòng chuyển con đến đâu?
– Dạ ở GLKT…
– Tốt – cha ân cần nói – Cha thấy con là người yêu mến công việc truyền giáo, đặc biệt đối với người nghèo, các Bề trên con cũng đã nhìn ra điều đó. Con đi xa, cha cũng buồn; nhưng công việc truyền giáo của Giáo hội còn lớn hơn cả những tình cảm cá nhân, con à. Tương lai đất nước có phát triển, Giáo hội có thăng tiến về mọi mặt hay không cũng là nhờ phần lớn ở công việc truyền giáo của các Kitô hữu, đặc biệt là những người thánh hiến. Con hãy ra đi và làm chứng cho lương tâm công giáo của mình, sống trong sự thật và hết lòng giáo dục thế hệ đàn em, giúp đỡ những người nghèo… Đó cũng là môi trường tốt để con trở thành chứng nhân, không chỉ với những người Kinh mà cả những người sắc tộc khác nhau nữa. Cha tin vào con.
Thế rồi em chia tay cha để đi đến vùng đất mới. Nơi đó, em được sống cùng những người dân tộc thiểu số và rất nhiều người nghèo. Em luôn mang hành trang trong mình là những lời nhắn nhủ của cha. Lúc đó, em nghĩ rằng mình không còn cơ hội về thăm cha nữa, vì ở môi trường mới này, ai đến đó thì phải ở một thời gian rất lâu để học tiếng dân tộc và giúp họ.
Hằng ngày em vừa dạy học văn hóa cho trẻ em nghèo, vừa đi đến từng gia đình để dạy giáo lý cho họ; tối đến, em học tiếng dân tộc. Công việc rất bận rộn, nhưng em luôn nhớ đến gương sống của cha em: luôn dấn thân cách quảng đại và phục vụ mọi người theo gương Đức Kitô.
Chỉ một thời gian ngắn, nhờ chị em trong cộng đoàn yêu thương, nâng đỡ, em đã nhanh chóng thích nghi với môi trường mới và quen dần với công việc. Trong cộng đoàn này, em là người nhỏ tuổi nhất và dáng người cũng vậy, đến nỗi nhiều người vui đùa gọi em là “cây sậy”, nhưng cũng có người nói: “cây sậy này rất dẻo dai”. Công việc của em đang tiến hành tốt đẹp thì một tai nạn bất ngờ xảy đến cho em.
Chị Phương Trâm ngắt lời tôi:
– Em có nghe nói chị bị tai nạn, nhưng không biết rõ và cũng chẳng đi thăm chị được, vì em ở quá xa. Em còn nghe nói đó là “tai nạn hồng phúc nữa”. Em thắc mắc không hiểu, vậy chị kể cho chúng em nghe đi!
Chị Xuân Trúc cười và tiếp tục kể:
– Vào một buổi chiều, sau khi dạy giáo lý xong, em đang trên đường trở về nhà trên chiếc xe Honda, vừa rẽ vào hẻm, hai thanh niên say rượu chở nhau chạy bổ vào em. Quá bất ngờ, tay lái của em bẻ qua phía khác để tránh, rồi vì không giữ được thăng bằng, xe em đã ngã xuống và sau đó, em không còn biết gì nữa…
Khi tỉnh dậy, em thấy mình đang nằm ở phòng cấp cứu của bệnh viện tỉnh. Thấy em tỉnh lại, bác sĩ thăm dò em:
– Cô ở đâu?
– Dạ ở GLKT.
– Cô bao nhiêu tuổi?
– Dạ 40 tuổi.
Em hỏi lại bác sĩ:
– Tôi đã bị thế nào, ai đã đưa tôi vào đây?
Bác sĩ trả lời:
– Một số cô gái xưng là chị em của cô. Các cô ấy kể rằng: sau khi cô bị tai nạn, hai người thanh niên kia đã bỏ chạy, một người trong giáo xứ đang đi trên đường nhìn thấy cô đang nằm bất tỉnh, bà ấy đã gọi cho các cô ấy đến đưa cô vào cấp cứu…
Sáng hôm sau, em được chuyển xuống phòng hồi sức, bác sĩ cho thân nhân vào thăm vì tình trạng của em đã khả quan hơn và dù bị đập đầu xuống đất, em không bị chấn thương sọ não, chỉ bị bể đầu phải may năm mũi và bị chấn thương nặng ở cột sống. Nhưng lúc đó, vì quá hoảng sợ nên em đã ngất xỉu.
Vừa gặp thấy các chị trong cộng đoàn, em chợt khóc vì thấy tủi thân. Bao nhiêu chị em đến ở đây trước không sao, còn em mới đến đây chưa được một tháng thì tai họa đã xảy đến. Nhưng rồi em chợt nhớ đến câu nói của cha em: “không có gì ngoài thánh ý Chúa”. Vì thế, em bình tĩnh lại và cũng thầm tạ ơn Chúa là em chưa bị chấn thương sọ não, nếu không, đó có thể là lần cuối cùng…
Sau khi chuyện trò thăm hỏi, một số chị trong cộng đoàn đã ra về, chỉ có một chị ở lại để chăm sóc cho em.
Ngày thứ hai, toàn thân của em vẫn ê ẩm, không thể nhấc mình lên được. Sáng hôm ấy, em đang nằm mê man và nhớ lại tai nạn đã xảy ra cho em, chợt có cô y tá đến báo tin:
– Bệnh nhân Xuân Trúc có người nhà đến thăm!
“Là ai?”- em tự hỏi, ngoài chị em trong cộng đoàn ra, em còn có người nào đâu, vả lại ở nơi xa xôi này, các chị em cộng đoàn khác cũng khó mà đến được. Hơn nữa, tình trạng của em chưa đến nỗi nào. Cha mẹ thì em không cho biết tin, sợ các ngài lo lắng. Vậy là ai?
Cô ý tá dẫn vào một người đàn ông cao niên, dáng người phúc hậu, với mái tóc bạc phơ. Nhìn dáng người quen quen, em cố gắng ngồi dậy để nhận diện cho rõ. Rồi em reo lên:
– Cha!…
Quá xúc động, không thể nói thành lời, em òa lên khóc, giống một đứa trẻ xa nhà lâu ngày được gặp cha mẹ. Em thật ngỡ ngàng, em không thể ngờ: với sức khỏe của cha như vậy mà cha lại đến thăm em. Sau này em mới biết là các chị trong cộng đoàn đã báo cho cha về tai nạn đã xảy đến cho em. Biết được tin này, ngày hôm sau, nhân dịp lên thành phố tham dự cuộc họp, sau buổi họp, người đã đến thăm em, dù phải đi suốt từ chiều hôm trước đến sáng hôm sau.
Lúc đó, em không thể diễn tả hết được nỗi xúc động khi gặp lại cha của em. Em cảm nhận rằng: cha chính là người mục tử nhân hậu luôn quan tâm đến từng con chiên. Cha mang trong mình trái tim của Đức Kitô, cùng chung nhịp đập với Người, biết thổn thức trước niềm đau và nỗi khổ của người khác và sẵn sàng hy sinh vì đoàn chiên.
Cha quả là người cha tuyệt vời mà em không thể nào diễn tả hết được…
Kể đến đó, chị Xuân Trúc chợt xúc động, ngưng một lúc, chị nói tiếp:
– Cho đến nay, sau nhiều năm phục vụ tại vùng đất nghèo, xa xôi đang từng ngày vươn mình để thay da đổi thịt, em đã tốt nghiệp ngành Y Học Dân Tộc Cổ Truyền và tiếp tục phục vụ cho đồng bào dân tộc ở đó. Em đã nói và sử dụng được tiếng dân tộc một cách thành thạo trong chuyên ngành và trong sứ vụ.
Em luôn ghi ơn Hội Dòng đã dẫn dắt em từng bước trong hành trình dâng hiến và tri ân cha của em đã đồng hành với em trong hành trình sứ vụ, để hôm nay, dù gặp nhiều khó khăn và thử thách trong cánh đồng truyền giáo, em cũng không nản lòng; trái lại, em luôn sống đúng tôn chỉ của Dòng và cùng với chị em dấn thân không mệt mỏi để tìm kiếm những con chiên lạc, những con chiên sa ngã và lỡ lầm để đưa về một đoàn chiên duy nhất.
Cha chính là một người cha, một người mục tử luôn hết lòng vì Chúa Kitô và Giáo hội của Người…
“Tạ ơn chúa, cám ơn cha hiền của con”. Đó là tâm tình mà em luôn thưa lên cùng Chúa, để tạ ơn và cầu xin cho cha được luôn mạnh khỏe, bình an và thánh thiện, để dẫn dắt đoàn chiên Giáo hội thẳng tiến về đồng cỏ Nước Trời.
Kể đến đó, chị Phương Trâm và chị Thanh Trà vỗ tay reo lên:
– Hoan hô cha tinh thần của chị Xuân Trúc, thật tuyệt vời…
Rồi chị Phương Trâm nói:
– Nếu nói đúng ra, cha của chị Xuân Trúc cũng là cha của chúng em và là cha của mọi người!